Bối cảnh Nhiệm vụ Boston

Kế hoạch của quân Đồng Minh

Các kế hoạch đổ bộ vào Normandie đã trải qua nhiều giai đoạn sơ bộ trong suốt năm 1943. Lúc đó, Bộ Tổng tham mưu Liên quân (CCS) có ý định điều động 13-14 đơn vị máy bay vận chuyển cho một cuộc đổ bộ hàng không. Quy mô, mục tiêu cụ thể và chi tiết của chiến dịch không được vạch ra tới khi Đại tướng Dwight D. Eisenhower được bổ nhiệm làm Tư lệnh Tối cao của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh (SHAEF) vào tháng 1 năm 1944. Vào giữa tháng 2 năm 1944, Eisenhower nhận được thông tin từ Bộ chỉ huy Không lực Lục quân Hoa Kỳ rằng lực lượng máy bay vận chuyển quân sẽ được tăng cường từ 52 lên 64 chiếc (thêm chín chiếc dự phòng) vào tháng 4 năm 1944. Cùng thời điểm đó, Trung tướng Omar Bradley đã chấp thuận kế hoạch đổ bộ của hai sư đoàn không vận vào Bán đảo Cotentin, một sư đoàn sẽ chiếm giữ các tuyến đường nối ra bãi biển và phong tỏa một nửa khu vực phía đông Carentan khỏi các đợt tiếp viện của quân Đức, sư đoàn còn lại sẽ phong tỏa nkhu vực phía tây La Haye-du-Puits. Do tính chất nguy hiểm và đòi hỏi kinh nghiệm cao của nhiệm vụ ở La Haye de Puits, Bradley đã giao khu vực đó cho Sư đoàn Không vận 82 (biệt danh "The All-Americans") của Thiếu tướng Matthew Ridgway, một đơn vị kì cựu từng nhảy dù xuống Sicily và Italy. Trong khi đó, việc kiểm soát các tuyến đường nối từ bãi biển vào đất liền đựoc giao cho đơn vị mới được thành lập - Sư đoàn Không vận 101 (biệt danh "Đại bàng Thét" - "The Screaming Eagles") của Chuẩn tướng Maxwell D. Taylor.

Trung tướng Bradley nhấn mạnh rằng 75% lực lượng lính dù sẽ được đổ bộ bằng tàu lượn sau hai đợt đổ quân chính. Do chiến dịch đổ bộ lính dù sẽ không được hạm đội tàu chiến và không quân Đồng Minh hỗ trợ, và Ridgway, chỉ huy Sư đoàn Không vận 82, cũng muốn có các đợt đổ bộ bằng tàu lượn để đưa các đơn vị pháo dã chiến của sư đoàn vào mặt trận. Việc sử dụng tàu lượn cho cuộc đổ bộ được lên kế hoạch cụ thể tới ngày 18 tháng 4, sau khi các đợt thử nghiệm ở điều kiện thực tế dẫn đến nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng và khiến nhiều tàu lượn bị phá hủy. Ngày 28 tháng 4, kế hoạch được thay đổi, toàn bộ lực lượng lính dù sẽ được vận chuyển bằng một đợt máy bay và nhảy dù vào ban đêm, các đơn vị tàu lượn chở theo trang thiết bị sẽ được đổ bộ vào giữa ngày.[1]

Quân đội Đức, vốn lơ là và bỏ qua việc củng cố Normandie trước đó, đã bắt đầu xây dựng một số lượng lớn các cứ điểm phòng thủ và hệ thống chướng ngại vật dưới sự chỉ huy của Thống chế Erwin Rommel. Rommel được bổ nhiệm làm giám sát quá trình nâng cấp Bức tường Đại Tây Dương kiêm Tư lệnh Cụm tập đoàn quân B vào tháng 11 năm 1943 theo lệnh của Hitler. Khi đến nơi, Rommel ngay lập tức cho nâng cấp và xây dựng toàn bộ các tuyến phòng thủ ven biển và trong đất liền. Việc nâng cấp bao gồm gài một hệ thống mìn rộng lớn và các hệ thống cọc chăng dây cao tới hai mét, rất nhiều trong số đó được gài mìn hoặc gắn các loại bẫy khác để tiêu diệt tàu lượn và lính dù, trong đó khu vực đổ bộ của Sư đoàn Không vận 82 được tăng cường phòng ngự đáng kể. Lúc đầu, kế hoạch không có sự thay đổi. Nhưng khi nhận được tin các lực lượng Đức đã được tăng cường đáng kể vào khu vực trong tháng 5, các bãi thả quân của Sư đoàn 82 đã được di chuyển sang vị trí mới, mặc dù các kế hoạch chi tiết và huấn luyện đã được tiến hành dựa trên các bãi cũ.[2]

Mười ngày trước Ngày D, các chỉ huy Đồng Minh đã đi đến kết luận cuối cùng. Do sự tập trung đông đúc của các đơn vị quân Đức trong khu vực, Bradley, chỉ huy Tập đoàn quân số 1, muốn Sư đoàn Không vận 82 đổ bộ sát Sư đoàn 101 để hỗ trợ lẫn nhau nếu cần. Tuy nhiên, Thiếu tướng J. Lawton Collins, chỉ huy Quân đoàn VII, lại muốn Sư đoàn 82 đổ bộ xa hơn về phía tây Sông Merderet để thiết lập một đầu cầu. Vào ngày 27 tháng 5, các bãi thả quân được di dời về vị trí cách Le Haye-du-Puits 10 dặm (16 km) về phía đông dọc Sông Merderet. Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù (PIR) 501 của Sư đoàn Không vận 101, ban đầu được giao nhiệm vụ đánh chiếm Sainte-Mère-Église, được chuyển sang bảo vệ vành đai thị trấn Carentan, và việc đánh chiếm Sainte-Mère-Église được giao cho Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 505 kì cựu của Sư đoàn Không vận 82.[3]

Sư đoàn Không vận 82

Sư đoàn Không vận 82, chỉ huy bởi Thiếu tướng Matthew B. Ridway, một vị tướng dày dạn trận mạc, có hai đơn vị là Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 504 và 505, đã từng tham gia các chiến dịch nhảy dù ở SicilyItaly. Tuy nhiên, Trung đoàn 504 không thể đến kịp Anh để tham gia huấn luyện chuẩn bị cho Chiến dịch Neptune, nên thay vào đó, được thay thế bởi hai trung đoàn mới được thành lập là 507 và 508.[4] Do có nhiều kinh nghiệm tác chiến từ các chiến dịch trước đó, Sư đoàn Không vận 82 được giao các nhiệm vụ nguy hiểm và rủi ro hơn trong Ngày D. Đơn vị cuối cùng của sư đoàn, Trung đoàn Bộ binh Tàu lượn 325, sẽ đổ bộ vào ngày 7 tháng 6.

Nhiệm vụ chính của Sư đoàn Không vận 82 là đánh chiếm thị trấn Sainte Mère Église, nơi có một hệ thống giao lộ quan trọng ở phía sau Bãi Utah, và chặn các đường tiếp cận của quân Đức vào khu vực phía tây và tây nam. Cụ thể hơn, họ phải chiếm các con đường đắp cao và các cây cầu bắc qua sông Merderet tại La FièreChef-du-Pont, phá hủy cây cầu trên sông Douve tại Pont l'Abbé (nay là Étienville), và đảm bảo an toàn ở khu vực phía tây Sainte Mère Église để thiết lập một tuyến phòng thủ giữa Gourbesville và Renouf.[5]

Ngoài ra, các đơn vị còn có nhiệm vụ làm gián đoạn, phá hoại hệ thống thông tin liên lạc của Đức, thiết lập các chốt để cản trở sự di chuyển của quân tiếp viện Đức, và hình thành tuyến phòng thủ nối giữa khu vực Neuville và Baudienville ở phía bắc, kiểm soát hoàn toàn từ khu vực thả quân tới Les Forges, và liên kết với Sư đoàn Không vận 101 của Thiếu tướng Maxwell D. Taylor.[6]

Để hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, Sư đoàn Không vận 82 được chia thành ba lực lượng tấn công chính:

  • Lực lượng A (lính dù): bao gồm ba trung đoàn nhảy dù và các đơn vị hỗ trợ, được chỉ huy bởi Chuẩn tướng James M. Gavin, phó chỉ huy Sư đoàn Không vận 82,
  • Lực lượng B (lính tàu lượn): bao gồm một trung đoàn tàu lượn, các tiểu đoàn pháo binh và hậu cần, được chỉ huy bởi Thiếu tướng Matthew Ridway, chỉ huy trưởng Sư đoàn Không vận 82,
  • Lực lượng C (đổ bộ đường biển): các đơn vị còn lại của sư đoàn, các đơn vị hợp thành bao gồm xe tăng, sẽ đổ bộ tại Bãi Utah, được chỉ huy bởi Chuẩn tướng George P. Howell.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhiệm vụ Boston http://www.6juin1944.com/assaut/aeropus/en_9tcc.ph... http://www.6juin1944.com/veterans/brannen.php http://www.history.army.mil/books/wwii/7-4/7-4_8.h... http://www.history.army.mil/books/wwii/7-4/7-4_Con... http://www.history.army.mil/html/books/007/7-4-1/C... http://amcmuseum.org/history/troop-carrier-d-day-f... http://www.americandday.org http://www.b-26marauderarchive.org/MS/MS1741/MS174... //www.worldcat.org/oclc/606012173 http://www.ww2-airborne.us/